Khi sử dụng thủ thuật này, mấu chốt là bạn gắn sự nghi ngờ vào một điều mà bạn biết chắc chân là đúng, nhưng hoàn toàn không liên quan tới người bị nghi ngờ. Nếu người đó cố tình che giấu hay bác bò sự thật mà bạn đã biết chắc chắn, bạn đã có câu trả lời cho mình.
Còn nếu người đó biết sự thật nhưng lại không nhìn ra mối liên hệ tới sự việc, thì sự nghi ngờ của bạn là không có cơ sở. Hãy xem ví dụ dưới đây:
Ví dụ thực tế về tâm lý học Henry nghi ngờ bạn gái nghiện rượu.
Anh biết Elaine hay ăn kẹo cao su sau khi dùng bữa, một thói quen không liên quan lắm đến nghiện rượu (và thậm chí còn là một thói quen tốt). Anh
có thể nói như sau: "Anh có đọc được một tài liệu nói rằng người nghiện rượu thường có xu hướng nhai kẹo cao su sau khi ăn."
Trong trường hợp Elaine đúng là người nghiện rượu, anh ta sẽ nhận thấy cô không thoái mái và có lẽ sẽ chọn cách không ăn kẹo cao su sau bữa ăn nữa.
Thực ra cô không có lí do gì để phải từ bỏ thói quen thường ngày của mình nếu không phải thói quen đó làm cô bất lợi. Ngoài ra, cô cũng không có lí do gì để nghi ngờ tính xác thực trong câu nói của bạn trai.
Cô có thể nghĩ: "Oái, đó chính xác là những gì mình làm." Tuy nhiên, nếu không phải cô là kẻ nghiện rượu, cô có thể nói với Henry rằng mình có thói quen ăn uống như vậy, nên tài liệu đó có thể không hoàn toàn đúng. Dĩ nhiên, cô có thể sẽ bò thói quen này đế tránh việc khiến bạn trai hiểu nhầm cô uổng rượu, dù thực tế cô không hề uống nhiều. Thông thường trong trường hợp này, cô gái sẽ không phủ nhận thói quen tốt của mình và phản bác lại "tài liệu" của bạn trai để chứng minh tài liệu đó hoàn toàn không đúng.
Khi sự nghi ngờ tăng cao, thù thuật này là phương pháp tốt nhất để biết liệu một người có đang che giấu điều gì hay không, dù đó có thể là một “diễn viên” gạo cội đến mấy đi chăng nữa. Phương pháp tâm lý này được thực hiện như sau: bạn thông báo cho cả đối tượng tình nghi và người cộng sự (đã được gài từ trước) rằng cả hai đều là “đối tượng nghi vấn” và bạn tạo cho mình cái vẻ không quan tâm lâm tới đối tượng nghi vấn thực sự.Sau đó, thận trọng quan sát phản ứng của đối tượng. Nếu sự liên hệ với người thứ ba khiến đối tượng bận Ví dụ thực tế Một viên thám tử sau khi đưa cả hai đỗi tượng tình nghi vào phòng tạm giam thì tuyên bố: "Chúng tôi biết một trong hai anh chính là kẻ phạm tội, vết máu tìm thấy ở hiện trường cho biết kẻ phạm tội đã nhiễm vi rút viêm gan c." Giờ đây, khi người được dẫn vào cùng tiến tới gần đối tượng tình nghi với bàn tay đang chảy máu, thì nếu đối tượng tình nghi vô tội, chắc chắn anh ta sẽ tránh ra một bên và trở nên rất kích động. Anh ta lo sợ rằng người còn lại chính lồ tên tội phạm và có thế gây hại cho anh ta.
Ngược lại, nếu anh ta chính là ké phạm tội, anh ta sẽ chẳng có lí do gì đề phải bận tâm chuyện người kia có dính vi rút viêm gan hay không. Tự bản thân anh ta mặc định rằng mình mới là người đã mắc căn bệnh đó.
Bạn cũng có thê’sửdụng thủ thuật này cho các nhóm bằng cách gân đánh giá của bạn vào sựviệcbị nghi ngờ chứ không phải cho đối tượng bị nghi ngờ, và dần dần người bị tình nghi sẽ để lộ sơ hở.
Ví dụ thực tế Một Giám đốc công ty bán iphone 5 cu muốn tìm ra ai là người đã lục trộm ngăn kéo của mình, anh ta có thể nói: "Bất kỳ ai đã vào phòng đều bị sa thải. Những người còn lại sẽ được thăng chức vì đã trải qua cuộc điêu tra này," sau đó theo dõi biểu hiện của đối tượng nghi vấn. Nếu đối tượng hào hứng hoặc muõn hỏi thêm vê mức nâng lương hoặc các bổng lộc của vị trí mới, có lẽ anh ta không làm chuyện đó. còn nẽu anh ta im lặng từ đâu tới cuối thì có thể đó chính là kẻ đã "đột nhập" và thực hiện hành vi sai trái.
0 Comments:
Đăng nhận xét